0936715979
TRUNG TÂM KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC SÀI GÒN

SAIGON CENTRE FOR EDUCATIONAL QUALITY ACCREDITATION

Vi En

Ý kiến của CEA-SAIGON về Kiểm định chương trình đào tạo của các Trường Đại học - Cao đẳng

         Kiểm định chất lượng (KĐCL) được áp dụng tại Việt Nam từ những năm đầu tiên của thế kỷ 21 với mô hình đánh giá ngoài thử nghiệm cho 40 cơ sở giáo dục đại học[1] cho thấy Việt Nam đã quyết định lựa chọn KĐCL đối với cơ sở giáo dục trước kiểm định chương trình đào tạo (CTĐT)[2]. Có thể nói, hoạt động KĐCL cơ sở giáo dục đã giúp cho các trường đại học có trách nhiệm trước xã hội về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.

         Sau hơn 10 năm thử nghiệm đánh giá ngoài đối với các cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu kinh nghiệm thực tế ở các nước cho thấy kiểm định CTĐT có tác động trực tiếp đến người dạy, người học, vốn là các đối tượng quan trọng nhất làm nên chất lượng của một trường đại học. Trong vòng 10 năm nhất là 03 năm gần đây, Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh KĐCL các CTĐT tại các trường đại học; việc này cũng hợp lý hơn khi Việt Nam tham gia vào hệ thống bảo đảm chất lượng của các nước Đông Nam Á với các tiêu chuẩn đánh giá của AUN-QA. Ngay từ những năm đầu tiên, nhiều trường đã đầu tư nguồn lực cho việc tự đánh giá và đánh giá ngoài, và sau đó là hình thành văn hóa chất lượng trong đơn vị của mình. Điển hình như Trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM, khi chúng tôi tham gia tư vấn từ 2016-2019, nhà trường đã mạnh dạn/đẩy mạnh đầu tư cho công tác tự đánh giá hướng đến cải tiến chất lượng CTĐT đáp ứng yêu cầu trong nước và chuẩn quốc tế (bao gồm phát triển nguồn nhân lực bảo đảm chất lượng, xây dựng và cải tiến CTĐT, rà soát và chỉnh sửa các đề cương chi tiết, các quy trình, quy định quản lý CTĐT, cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều tra khảo sát, v.v...). Chính tầm nhìn xa đã giúp cho Trường đi từ giai đoạn đầu tiên là đáp ứng quy định tối thiểu đến việc xây dựng quy trình, lộ trình và sau đó là một hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong mang tính bền vững. Đánh giá và công nhận bên ngoài là hệ quả tất yếu của quá trình này.

Phỏng vấn Nhà tuyển dụng ngành Kế toán tại Trường Đại học Cần Thơ.

       

         Hay Trường Đại học Cần Thơ - nơi CEA-SAIGON đang tiến hành đánh giá ngoài các CTĐT, thông tin từ lãnh đạo nhà trường cung cấp cho thấy Trường đã và đang đầu tư thỏa đáng cho công tác tự đánh giá, đánh giá ngoài, cải tiến và nâng cao chất lượng CTĐT. Đến nay, Trường đã thực hiện KĐCL cho 22 CTĐT theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA và 18 CTĐT theo bộ tiêu chuẩn của Bộ GD&ĐT. Tổng kinh phí dự trù cho 01 CTĐT để đánh giá theo tiêu chuẩn AUN-QA (hình thức trực tiếp) cũng tương đương như kinh phí đánh giá ngoài cho 01 CTĐT theo bộ tiêu chuẩn của Bộ GD&ĐT. Trường còn cử cán bộ tham gia các khóa tập huấn, đào tạo về bảo đảm chất lượng; tham gia các chương trình dự án bảo đảm chất lượng trong và ngoài nước. Các con số tài chính cho thấy Trường đầu tư kinh phí đáng kể cho việc bảo đảm chất lượng, tuy nhiên, theo ý kiến của lãnh đạo nhà trường, sự đầu tư này là hoàn toàn xứng đáng với việc có được một hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong vững mạnh như hiện nay.

         Là một trong các Trung tâm KĐCLGD đại học của Việt Nam với một đội ngũ kiểm định viên cơ hữu và cộng tác viên là các kiểm định viên hơn 60 người, trong đó hầu hết đều là những người chịu trách nhiệm chính trong công tác tự đánh giá các CTĐT tại các trường đại học; chúng tôi đặt 03 câu hỏi chính với 57 người:

         1/ Kiểm định chất lượng các CTĐT giúp cho các trường/khoa cải tiến chất lượng, thể hiện trách nhiệm giải trình trước xã hội;

         2/ Kiểm định chất lượng chưa mang lại tác động tích cực mà còn mang lại phiền phức, tốn kém cho các trường;

         3/ Việc tham gia kiểm định chất lượng CTĐT giúp các khoa, bộ môn hiểu hơn về việc phát triển CTĐT.

         Và kết quả chúng tôi nhận được các phản hồi như sau:

         - Có 42/57 (gần 74%) thành viên chọn 1) (Kiểm định chất lượng các CTĐT giúp cho các trường/khoa cải tiến chất lượng, thể hiện trách nhiệm giải trình trước xã hội).

         - Có 24/57 (hơn 42%) thành viên chọn 3) (Việc tham gia KĐ chất lượng CTĐT giúp các khoa, bộ môn hiểu hơn về việc phát triển CTĐT).

         - Có 01/57 (1,75%) thành viên chọn 2) (Kiểm định chất lượng chưa mang lại tác động tích cực mà còn gây phiền phức, tốn kém cho các trường).

         Qua kết quả thu thập từ 57 ý kiến ở trên cho thấy: Hầu hết các cán bộ làm công tác KĐCLGD đều nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc KĐCLGD CTĐT. Một trong những vai trò nổi bật nhất là KĐCLGD các CTĐT giúp cho các trường/khoa cải tiến chất lượng, thể hiện trách nhiệm giải trình trước xã hội. Bên cạnh sự tán đồng chủ trương KĐCLGD thì có thêm một số ý kiến làm rõ thêm các quan điểm vì sao cần phải quan tâm hơn công tác KĐCLGD CTĐT, cụ thể như sau:

         Một số trường xem kiểm định là gánh nặng vì hệ thống quản trị của trường chưa tốt, nhiều mặt hoạt động còn ở mức dưới trung bình, chưa đạt yêu cầu của tiêu chuẩn kiểm định nên phải loay hoay tìm cách giải trình, tìm minh chứng; nhiều cán bộ quản lý cấp trường, cấp CTĐT, giảng viên chưa hiểu thế nào là đào tạo để đáp ứng chuẩn đầu ra (vốn là yếu tố sống còn của CTĐT) thì xem kiểm định là gánh nặng cũng không có gì phải ngạc nhiên. Khi trường đã hình thành văn hóa chất lượng, thì những yêu cầu của kiểm định đã có sẵn, Trường cứ vậy lấy ra dùng, không phải vất vả việc giải trình. Cũng cần nhìn nhận thêm, một số tổ chức kiểm định nước ngoài (ACBSP, FIBBA…) đánh giá CTĐT của Việt Nam cũng mất khoảng từ 03 đến 04 năm kể từ khi đăng ký, hoàn thiện hồ sơ, thực hiện các yêu cầu trong quá trình theo dõi hồ sơ, đến khi đánh giá. KĐCL đòi hỏi một quá trình, không thể làm cho các trường có ngay văn hóa chất lượng trong một thời gian ngắn. Bộ tiêu chuẩn cũng cần rà soát lại để ít trùng lặp, giảm yêu cầu khảo sát điều tra, để các trường đỡ vất vả (GS.TS. Nguyễn Quang Dong – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).

Chuyên gia kiểm định khảo sát thực tế tại Khoa Cơ khí Trường Đại học SPKT Vĩnh Long.

         Các trường nên nghiên cứu Quyết định 78 như trả lời của Cục trưởng Cục QLCL: “các trường đại học nghiên cứu kỹ Quyết định 78 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có lộ trình thực hiện kiểm định. Nhà nước không bắt buộc các trường đại học phải vội vàng thực hiện 100% kiểm định trong chu kỳ 05 năm”.

         Tôi đồng ý với quan điểm: “vấn đề quản trị của các trường chưa tốt vì còn đối phó khi kiểm định nên xem đó là gánh nặng.” (ThS. Nguyễn Thị Sáu – KĐV cộng tác viên CEA-SG).

         “Muốn xem vấn đề thật sự hiệu quả như thế nào cần xem lại mục tiêu KĐCLGD để làm gì? Kết quả và khuyến nghị của KĐCLGD các CSGD đã thật sự sử dụng hiệu quả chưa? Nếu thật sự đã đạt được mục tiêu như mong đợi thì việc này sẽ không bị xem là gánh nặng. Tuy nhiên, việc cải tiến công tác KĐCLGD cũng cần phải quan tâm để tránh các vấn đề phức tạp như báo chí đã nêu.” (PGS.TS. Lê Chi Lan – Trường Đại học Sài Gòn).

         Cái “được” lớn nhất trong chu kỳ vừa qua của công tác kiểm định là làm thay đổi nhận thức của không chỉ đội ngũ lãnh đạo các trường mà cả các giảng viên thông qua các khuyến nghị, đề xuất; để họ cải tiến, thực hiện và hình thành văn hóa chất lượng mang tính sâu rộng trong nhà trường (TS. Lê Thế Cường – Trường Đại học Vinh).

         Các trường cần có giai đoạn đầu để thích nghi với việc kiểm định và trường nào đang trong giai đoạn này thì đúng là gánh nặng do các trường còn lúng túng khi chưa thiết lập được hệ thống quản lý minh chứng hiệu quả. Tuy nhiên, sau lần đầu thì các trường sẽ rút kinh nghiệm cải tiến, thậm chí tự động hóa quy trình quản lý minh chứng thì sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều và từ đó mọi hoạt động của trường sẽ trở nên bài bản và chuyên nghiệp, tạo lập được văn hóa kiểm định. Đó chính là kết quả và hiệu quả do kiểm định mang lại. KĐCLGD Việt Nam đang cần cách nhìn bình tĩnh, hệ thống và tầm nhìn xa, không nên lo sợ và đổi dòng chỉ vì một số ý kiến quan ngại (những ý kiến này không sai nhưng luôn hiện hữu trong bất cứ hoạt động nào). Có quan điểm cho rằng nên cho phép các trường tự kiểm định; tuy nhiên, theo tôi, Việt Nam không nên chuyển sang cơ chế tự kiểm định vì nếu tự kiểm định thì sẽ cho được kết quả “mỹ mãn” hơn hiện nay rất nhiều nhưng không phản ánh đúng chất lượng của giáo dục đại học, và thực chất chính là tự từ bỏ cơ chế KĐCL CTĐT hiện đang đi vào nề nếp. Việc Bộ GD&ĐT yêu cầu đến lúc nào đó, 100% các CTĐT phải được kiểm định cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc dần loại bỏ khỏi xã hội các CTĐT không đạt chất lượng. Vấn đề còn lại chỉ là lộ trình thời gian thực hiện và lộ trình giảm thiểu chi phí kiểm định mà thôi. Đối với lộ trình thời gian thì Bộ GD&ĐT cần thống kê số liệu và tốc độ kiểm định hiện nay để đưa ra yêu cầu sát hơn với thực tiễn kiểm định, tránh tình trạng quá tải cho các trường và các trung tâm kiểm định. Còn về lộ trình giảm thiểu chi phí kiểm định, thực ra chi phí này được cấu thành từ cả chi phí bên trong (xây dựng Báo cáo Tự đánh giá, thu thập minh chứng, cải tiến trong quá trình tự đánh giá chuẩn bị cho đánh giá ngoài) và chi phí bên ngoài (chi phí trực tiếp cho khảo sát đánh giá ngoài). Hiện nay các Trường đang dần tự giảm thiểu các chi phí đó bằng việc rút kinh nghiệm và hợp lý hóa cách xây dựng báo cáo, hệ thống hóa và số hóa các minh chứng đáp ứng yêu cầu của kiểm định, bằng việc kiểm định gộp theo từng nhóm CTĐT, bằng cơ chế đấu thầu. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng sau một thời gian thích ứng và cải tiến thì công tác kiểm định sẽ thuyết phục được toàn xã hội về hiệu quả của nó và sẽ trở nên không thể thiếu được trong cuộc sống giáo dục đại học Việt Nam. Tôi cũng chưa nhìn thấy được cơ chế nào hợp lý hơn và hiệu quả cao hơn cơ chế kiểm định hiện nay mà chúng ta đang dần hoàn thiện. (PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu – Trường Đại học Luật Hà Nội).

Chuyên gia khảo sát thực tế tại Trường Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột.

       

         Tuy nhiên, bên cạnh sự tán đồng về công tác KĐCLGD CTĐT thì cũng có thêm ý kiến về việc thực hiện chủ trương KĐCL CTĐT và các kiến nghị của ngành như sau:

         KĐCL CTĐT mặc dù có mang lại tác động tích cực nhưng cũng làm tốn kém thời gian và tiền bạc. Việc yêu cầu 80% CTĐT cần đạt tiêu chuẩn KĐCL đến năm 2030 cần phải cân nhắc: khi cơ sở giáo dục có CTĐT được kiểm định tức là đã nhận được khuyến nghị và đề xuất cải tiến nên trường biết cách cần làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng CTĐT được kiểm định và tất cả các CTĐT còn lại cũng sẽ vận hành và quản lý giống/tương đương như vậy; trong khi đó, cơ sở giáo dục cũng đã được kiểm định rồi thì cấp hệ thống khá ổn để vận hành 100% các CTĐT của Trường.

         Có thể xem xét việc ĐGN ở các chu kỳ sau chỉ nên tập trung đánh giá lại những nội dung (theo Tiêu chí) còn chưa đủ mạnh, chứ không nên đánh giá lại hết các toàn bộ các Tiêu chuẩn để tránh lãng phí thời gian và chi phí cho cả cơ sở giáo dục và trung tâm KĐCLGD. Ngoài ra, các Trường cần đầu tư cho công tác tự đánh giá để hoạt động này thực chất hơn, giống như một nhà máy sản xuất có bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm (QC) nội bộ để luôn đảm bảo là sản phẩm của mình làm ra ngày càng tốt hơn, bền vững trong thị trường có sức cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh khác. Đây là thực hành được xem như cơ chế tự kiểm định như tại các cơ sở giáo dục của Úc. Công tác tự đánh giá sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi các trường xây dựng được một hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong vững mạnh, vận hành trên cơ sở đội ngũ chuyên trách và cộng tác viên nắm vững chuyên môn, các văn bản hướng dẫn thực hiện, biểu mẫu báo cáo dữ liệu, thông tin, và các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ lưu trữ, trích xuất dữ liệu. Việc đánh giá ngoài sẽ chỉ cần thiết nếu thị trường có yêu cầu, ví dụ một sản phẩm xe hơi ở thị trường Mỹ sẽ kiểm định khác với thị trường Châu Âu hoặc thị trường Việt Nam. Thực tế cho thấy, việc chọn ngành và trường của phụ huynh và người học phụ thuộc vào danh tiếng từ chất lượng thực của người học tốt nghiệp, tỉ lệ có việc làm, thu nhập bình quân, hơn là ngành hay trường đó đạt chứng nhận kiểm định nào. Xu thế tất yếu, các cơ sở giáo dục rồi sẽ ý thức được việc bảo đảm chất lượng đào tạo của mình gắn chặt với sự tồn tại và phát triển của mình và khi đó việc bảo đảm chất lượng của cơ sở giáo dục không phải chỉ mang tính hình thức, bắt buộc như hiện nay (PGS.TS. Nguyễn Hiếu Trung – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ).

         Quan điểm của CEA-SAIGON và kinh nghiệm hơn 20 năm trong lĩnh vực KĐCLGD của chúng tôi cho thấy: việc KĐCL CTĐT là một phần quan trọng trong quá trình giáo dục và đào tạo của một cơ sở giáo dục. KĐCLGD giúp bảo đảm CTĐT đáp ứng các tiêu chuẩn và yêu cầu chất lượng, bảo đảm rằng người học nhận được một trải nghiệm học tập tốt và chuẩn bị tốt cho tương lai. Bên cạnh đó, KĐCL bảo đảm giúp CTĐT đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia và quốc tế. Điều này bảo đảm rằng người học được cung cấp kiến thức và kỹ năng tốt nhất. Ngoài ra, từ kết quả khuyến nghị của việc KĐCLGD, các trường sẽ cải thiện liên tục để nâng cao hiệu suất đào tạo, tăng cường uy tín của cơ sở giáo dục, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới phương thức đào tạo đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động. Ví dụ: ở Hoa Kỳ, có 06 trung tâm KĐCL cơ sở giáo dục và rất nhiều trung tâm thực hiện KĐCL CTĐT và các trung tâm kiểm định CTĐT này gắn với thị trường lao động; hiện nay, các trung tâm kiểm định quốc tế đang được cấp phép hoạt động tại Việt Nam cũng tập trung vào KĐCL các CTĐT. Việc kiểm định này giúp cho xã hội có các thông tin minh bạch, đáng tin cậy và giúp người học có nhiều sự lựa chọn trước khi đưa ra quyết định nhập học.

Chuyên gia ĐGN và đại diện lãnh đạo Trường Đại học Cửu Long trong phiên phỏng vấn.

         Việt Nam vẫn còn phải nỗ lực rất nhiều nhằm xây dựng văn hóa chất lượng BÊN TRONG nhà trường, tự cải tiến chương trình đào tạo. Lúc đó, đánh giá từ bên ngoài chắc chắn sẽ không còn gặp tình trạng đối phó và bị xem là gánh nặng của các trường./.

[1] Quyết định số 38/2004/QĐ-BGDĐT là công cụ để kiểm định cơ sở giáo dục đại học trong cả nước.

[2] Số lượng cơ sở giáo dục ít hơn số lượng CTĐT nhiều lần (hiện cả  nước có 242 cơ sở giáo dục đại học, nếu tính thêm số CSGD ĐH trong khối an ninh quốc phòng và viện nghiên cứu có đào tạo sau đại học thì không quá 400 trong khi đó ước tính số CTĐT các trình độ của GDĐH lên đến gần 10.000)

Tin liên quan
Thông báo
Đăng ký KĐCLGD
Văn bản mới
Thư viện ảnh
Liên kết website